Tuesday, August 1, 2017

Part 2: BIẾN ĐỔI RỪNG NGẬP MẶN Ở NAM KỲ TRONG TRĂM NĂM QUA Trần-Đăng Hồng, PhD


Hình 17. RNM Cà Mau năm 2010 (Vo et al., 2013)




Hình 18. Bản đồ phân loại RNM ở Cà Mau năm 2010 (Vo et al., 2013) 



Hình 19. Bản đồ RNM Cà Mau 2010-2011 (Nguyen et al., 2013)

Tổng trữ lượng toàn bộ lâm phần RNM Cà Mau là 770.004 m3­ cho thấy đây chủ yếu là rừng non, chủ yếu từ 1-5 tuổi, rừng trên 15 tuổi có diện tích rất nhỏ và rừng nghèo (Trí, 2012).

KIÊN GIANG
Kiên Giang có bờ biển dài 205 km, dọc theo bờ hình thành một dãy hành lang mỏng RNM.
Theo thống kê, diện tích RNM năm 1999 ước tính khoảng 3.936 ha, năm 2006 khoảng 5.430 ha do chương trình trồng rừng. Đa số RNM Kiên Giang tập trung ở An Biên và An Minh với dải rừng rộng từ 20 m đến 500 m.
Nay với kỹ thuật phân tích ảnh chụp từ vệ tinh, diện tích RNM Kiên Giang khoảng 3.500 ha, với dải rừng hẹp 10m (Duke et al., 2010). Theo tường trình này, đa dạng sinh học RNM dọc bờ biển Kiên Giang khá phong phú với 27 loài cây, Avicennia chiếm 50 %, thứ đến là Sonneratia (19 %) và Rhizophora (9 %), tuy nhiên thuộc loại rừng nghèo vì bị phá hủy nhiều.

BIẾN DẠNG ĐỊA HÌNH BỜ BIỂN NAM KỲ

Hai hiện tượng cùng xảy ra một lúc làm biến dạng địa hình bờ biển Nam Kỳ theo thời gian. Đó là sự bồi đắp phù sa làm bờ biển nới rộng thêm ra, đồng thời hiện tượng xói lở bờ biển làm lãnh thổ bị co rút lại (Cat et al., 2006; Duke et al., 2010; Joffre, 2010; Hung et al., 2014). Hiện tượng bồi đắp phù sa tùy thuộc vào khối lượng phù sa của sông, vận tốc hải lưu, lực cản dòng chảy ở cửa sông. Hiện tượng xói lở bờ biển tùy thuộc sức mạnh của sóng, gió, bão, dòng hải lưu. RNM là sức cản giúp phù sa lắng đọng ở của sông và ven bờ biển gần sông, cũng là bức tường ngăn chận hay làm giảm sức sóng, gió, bão giúp bờ biển được duy trì. Vì vậy, việc phá hủy RNM làm giảm diện tích đất bồi và gia tăng mất đất do xói mòn bờ biển. Hai hiện tượng này xảy ra rất trầm trọng ở Nam Kỳ kể từ sau 1975, khi RNM bị phá hủy trầm trọng bởi con người.

Theo số liệu của Viện Điều tra quy hoạch rừng, trong tổng số 768 km bờ biển tại vùng ĐBSCL có 311 km bị xói lở (40 %), tập trung nhiều ở hai tỉnh Cà Mau (112 km, 14,6 %), Kiên Giang (88 km, 11,5 %) và các tỉnh ven biển khác.
Ngoài việc tổng hợp báo cáo của địa phương (như Cat et al., 2006; Viện Điều tra quy hoạch rừng), dựa theo không ảnh chụp từ vệ tinh cho một địa điểm ở các thời điểm khác nhau cho con số chính xác hơn về sự xói mòn bờ biển hay bồi đắp phù sa (Hong & San, 1993; Joffre, 2010; Duke et al., 2010; Brunner & Quyen, 2011; Lam Dao Nguyên et al., 2013; Hai-Hoa Nguyen et al., 2013; Hanh et al., 2014; V Tran Thi et al., 2014). Kết quả phân tích hình từ vệ tinh cho thấy Cồn Lợi (Bến Tre) mất 460 ha, Cửa Bassac mất 350 ha. Đặc biệt phía Biển Đông Cà Mau từ Cửa Bồ Đề đến Rạch Gốc mất 630 ha trong khoảng thời gian từ 28/4/1982 đến 17/6/1983, có nơi bờ biển xói lở tới 200 m (Hong & San, 1993).

Hình 20. Xói lở cửa sông Cái Lớn Cà Mau

Tại khu RNM Cần Giờ bờ biển phía đông bị xói lở với vận tốc 10-20 m/năm. So sánh 2 hình khu RNM Cần Giờ năm 1940 với 2010, thấy hình dạng thay đổi nhiều vì có sự bồi đắp phù sa (Hình 9).
Đoạn bờ biển giữa hai cửa sông Soài Rạp và cửa Tiểu có tổng chiều dài khoảng 17 km có tốc độ xói lở khoảng 10 - 30 m/năm trong thời gian từ năm 1965 - 2010. Trong khu vực này, chỉ có khoảng 1.500 m bờ biển giáp cửa Tiểu là được bồi tụ với tốc độ trung bình khoảng 10 - 15 m/năm.

Tại Gò Công, đoạn bờ biển giữa Cửa Tiểu và Cửa Đại được phù sa bồi đắp với vận tốc 100 m/năm, bờ biển tiến ra biển khoảng 3 km trong thời gian 1965-1989. Từ năm 1989 đến nay đã xuất hiện cồn nổi phía cửa Tiểu cách đường bờ cũ khoảng 2,7 km và liên tục phát triển về phía bờ, đến thời điểm hiện tại cồn nổi gần nối liền với cù lao Tân Phú Đông.

Trong phạm vi tỉnh Bến Tre, đoạn bờ biển nằm kẹp giữa Cửa Đại và Cửa Hàm Luông không bị xâm thực ngọai trừ đoạn bờ gần Cửa Đại, còn lại hầu hết dọc bờ biển được hình thành khá nhiều bãi bồi, trong đó khu vực cửa Ba Lai có tốc độ bồi mạnh nhất. Cũng vậy, đoạn bờ từ cửa sông Cống Bé đến cửa Hàm Luông được phù sa bồi tụ, đặc biệt khu vực bờ nam Cửa Ba Lai, tính từ năm 1965-1989 bờ biển đã được bồi ra khoảng 1,2 km, tốc độ lấn biển khoảng 50 m/năm. Ngược lại, từ năm 1965-1989, khoảng 4 km bờ biển từ cửa Đại đến cửa sông Cống Bé bị xói lở mạnh, với tốc độ xói khoảng 20 m/năm, gia tăng lên khoảng 25 m/năm trong giai đoạn từ 1989 đến nay, lý do là RNM bị phá hủy.

Tại Trà Vinh, đoạn bờ từ cửa Cung Hầu đến ấp Dân Thành, huyện Duyên Hải dài khoảng 25 km thường xuyên bị biển xâm thực
Từ năm 1965-1989 biển đã lấn vào đất liền khoảng hơn 200 m, trong đó có hai khu vực sạt lở mạnh là bờ biển Hiệp Thạnh dài khoảng 4 km bị sạt lở với tốc độ 8-10 m/năm, và khu vực bờ biển Nhà Mát bị sạt lở với tốc độ khoảng 15-20 m/năm. 
Trong giai đoạn 1989-2001, đoạn bờ này tiếp tục bị sạt lở, tốc độ dịch chuyển đường bờ khoảng 10 m/năm, trong đó khu vực bờ biển Hiệp Thạnh có tốc độ sạt lở mạnh hơn rất nhiều so với giai đoạn trước, vào khoảng hơn 20 m/năm. Đoạn bờ từ ấp Dân Thành đến cửa Định An được phù sa bồi tụ, tốc độ bồi lớn nhất tại khu vực bờ bắc cửa Định An khoảng 40 m/năm. Bên cạnh đó có một vài vị trí bị xói lở với mức độ nhẹ vào khoảng 3-5 m/năm.

Trong phạm vi Sóc Trăng, bờ biển tương đối thẳng, quá trình diễn biến đường bờ khá phức tạp, xói bồi xen kẽ nhau. Từ năm 1965 đến 1989, đoạn có sự biến động đường bờ mạnh nhất là từ cửa Mỹ Thanh kéo dài về phía nam khoảng 17 km, vị trí bồi lớn nhất vào khoảng 1.300 m, vị trí lở lớn nhất khoảng 400 m. Ở đoạn bờ kế tiếp thuộc xã Vĩnh Bình dài khoảng 20 km, hiện tượng bồi lấp là chủ yếu nhưng với tốc độ chậm chỉ khoảng 5 m/năm, riêng đoạn bờ thuộc ấp Biển Trên thị trấn Vĩnh Châu dài khoảng 1,5 km được bồi lấp với tốc độ bồi vào khoảng 15 m/năm. Đoạn bờ kế tiếp cho đến giáp ranh Bạc Liêu chủ yếu bị biển xâm thực, với chỗ xói lớn nhất là 320 m, tốc độ vào khoảng hơn 10 m/năm.

Từ năm 1989 đến 2008, đoạn bờ từ thị trấn Vĩnh Châu đến giáp ranh tỉnh Bạc Liêu lại bị xói lở, với tốc độ khoảng 10 m/ năm, đường bờ bị biển lấn vào khoảng 250 m.
So sánh bản đồ Cù Lao Dung giữa 1904 và 1933, thấy Cù Lao dài thêm gần 3 km, và nở rộng thêm 3 km (Joffre, 2010). 

Trong lãnh thổ Cà Mau, đoạn bờ biển từ sông Gành Hào đến mũi Cà Mau dài khoảng 100 km giáp biển Đông, là vùng biển bị xói lở, nhất là đoạn bờ từ cửa sông Đầm Dơi đến cửa Rạch Gốc dài khoảng 40 km có tốc độ dịch chuyển đường bờ khá mạnh khoảng 35 m/năm, từ năm 1965 - 2008 đường bờ biển đoạn này đã bị biển lấn vào khoảng 1,4 km. Ngược lại, đoạn bờ từ Mũi Cà Mau đến rạch Tiểu Dừa dài khoảng 154 km phía biển Tây, hoạt động xói bồi trong giai đoạn 1965-2001 diễn ra xen kẽ. Tuy nhiên hoạt động bồi tụ chiếm ưu thế, khu vực có tốc độ bồi tụ mạnh nhất là mũi Cà Mau, từ năm 1965-2001 mũi Cà Mau được bồi ra khoảng 3 km, tốc độ bồi bình quân khoảng 80 m/năm (Nguyen et al., 2013) 

Hình 21. Tình hình đất bồi và đất lở ở Cà Mau từ 1953-2011 (V. Tran Thi et al., 2014)

Riêng tại vùng biển Tây (khu vực Vịnh Thái Lan) từ mũi Cà Mau đến bờ Nam sông Bảy Háp có tốc độ bồi tụ cao nhất. Tổng diện tích bồi tụ từ năm 1930-1991 là 8.318 ha, trong đó có 6.852 ha thành rừng đưa vào qui hoạch lâm phần, 1.466 ha đang được cây mắm (Avicennia alba) thực hiện việc cố định đất lấn biển. Theo đó tốc độ lấn biển đạt 32,2 m/năm (Tri, 2009). Tương tự như vậy, Hinh 21 cho thấy trong thời gian 1953 -2011 dãi đất được nới chiều rộng ra thêm gần 6 km, chiều dài hơn 7 km (V. Tran Thi et al., 2014). Cũng cần lưu ý là đất bồi nhiều nhất trong thời gian 1953-1979, chậm dần trong thời gian 1979-2000, và coi như không còn bồi gì trong thời gian 2000-2011 (Hình 21), tương ứng với tốc độ hủy diệt trầm trọng RNM ở Cà Mau.

Ngược lại với bờ biển phía Tây, ven biển Đông của tỉnh Cà Mau lại là vùng biển lở do tác động của dòng hải lưu từ Thái Bình Dương chảy vào biển Đông. Trong đó vùng bờ biển bị xói lở mạnh nhất là từ Hố Gùi – Bồ Đề – Hốc Năng thuộc Tam Giang I và Ngọc Hiển. Từ năm 1968 đến 1996 (28 năm) trên đoạn bờ biển dài 22km này diện tích bị xói lở lên đến 2.842 ha, trung bình mất 101,50 ha/năm và chiều dày bờ biển bị xói lở trung bình 46 m/năm. Nói chung tốc độ xói lở bờ biển có lẽ sẽ tăng nhanh hơn nếu vùng này không được bao bọc bởi rừng ngập mặn (Trí, 2009). Dựa trên không ảnh từ vệ tinh, V. Tran Thi et al. (2014) ước tính vận tốc xói lở ở phần Biển Đông là 33,24 m/năm, và vận tốc bồi tụ ở phần Biển Tây là 40,65 m/năm

Thuộc khu vực tỉnh Kiên Giang, bờ biển chịu ảnh hưởng của thủy triều biển Tây tương đối yếu, nên có khuynh hướng bồi đắp. Tính từ năm 1965 - 2008 bờ biển Kiên Giang được bồi lấp từ 5 – 10 m/năm, trong đó vị trí bồi lớn nhất là đoạn bờ khu vực giáp ranh giữa huyện An Minh và An Biên, trong vòng 43 năm (từ năm 1965 - 2008) ở khu vực này đã được bồi ra khoảng 2 km, tốc độ bồi gần 50 m/năm. Tuy nhiên, trong những năm 2001-2008 tình trạng phá RNM phòng hộ đưa đến nhiều khu vực bị xói lở, đặc biệt trầm trọng như khu vực mũi Rảnh thuộc bờ Nam sông Cái Lớn và khu vực Vàm Rầy huyện Hòn Đất biển lấn vào khoảng 200 m (Nguyên L.D. et al. 2013; Nguyen H.H. et al., 2013). 


TÀI LIỆU THAM KHẢO
 


Brunner, J. (2012). Mangrove restoration in Viet Nam: national plans vs. local realities. http://www.iucn.org/vi/vietnam/?9561/1/Mangrove-restoration-in-Viet-Nam-National-plans-vs-local-realities
 
Brunner, J. & Quyen, N.H. (2011). Land cover change assessment in the coastal areas of the Mekong delta 2004-2009. Department of Remote Sensing Technology-GIS-GPS, Space Technology Institute (STI) Vietnam Academy of Science and Technology (VAST).

Cat, N.N., Tien, P.H., Sam, D.D. & Binh, N.N. (2006) Status of coastal erosion of Vietnam and proposed measures for protection, Regional technical workshop presentation: Coastal
protection in the aftermath of the Indian Ocean tsunami: what role for forests and trees?
28 – 31 August 2006, Khao Lak, Thailand. 

Cương, P.M. và CS (2012). Một số kết quả điều tra, khảo sát rừng ngập mặn và các điểm xói lở ven biển tỉnh Bến Tre. http://vienbaovecongtrinh.vn/vi-Vn/Tin-tuc/0/Mot-so-ket-qua-dieu-tra--khao-sat-rung-ngap-man-va-cac-diem-xoi-lo-ven-bien-tinh-Ben-Tre/184.html 

Cương, P.M. và CS (2012). Một số kết quả điều tra, khảo sát các điểm xói lở và rừng ngập mặn ven biển ở tỉnh Tiền Giang. http://vienbaovecongtrinh.vn/vi-Vn/Tin-tuc/0/Mot-so-ket-qua-dieu-tra--khao-sat-cac-diem-xoi-lo-va-rung-ngap-man-ven-bien-o-tinh-Tien-Giang/178.html
 
ĐTQH - Phân viện Điều tra Quy hoạch Rừng Nam (2006). Báo cáo Dự án Rà soát quy hoạch hệ thống rừng phòng hộ ven biển đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2006 – 2010 và tầm nhìn đến 2020: 54 trang. 

Duke, N., Wilson, N., Mackenzie, J., Nguyen, H.H. & Puller, D. (2010). Assessment of Mangrove Forests, Shoreline Condition and Feasibility for REDD in Kien Giang Province, Vietnam - A Technical Report. Published by Deutsche Gesellschaft für Technische Zusammenarbeit (GTZ) GmbH, and Conservation and Development of the Kien Giang Biosphere Reserve Project. 

Hạnh, T.V, Cương, P.M. & Công, N.H. (2014). Diễn biến rừng ngập mặn ở Gò Công Đông Tiền Giang từ giữa thế kỷ 20 tới nay .Tạp chí KH&CN Thủy lợi Viện KHTLVN. 

Hong, P. N. & San, H. T. (1993). Mangroves of Viet Nam. The IUCN wetlands programme. IUCN, Gland. Switzerland. 

Hùng, L.M., TS. Khang, N.D. & Chương, L.T. (2014). Xói lở, bồi tụ bờ biển Nam Bộ từ Thành phố Hồ Chí Minh đến Kiên Giang - Nguyên nhân và các giải pháp bảo vệ. 

Joffre, O. (2010). Mangrove Dynamics in Soc Trang Province 1889 – 1965. Published by Deutsche Gesellschaft für Technische Zusammenarbeit (GTZ) GmbH Management of Natural Resources in the Coastal Zone of Soc Trang Province. 

Lộc, Đ.H. (2011). Những cánh rừng biến mất. http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=16548
 
MAURAND, P. (1943). L’Indochine forestière, 2 vol. (Paris: Institut de Recherche Agronomique d'Indochine). 

Miyagi, T., Nam, V.N., Sinh, L.V., Kainuma, M., Saitoh, A., Hayashi, K. & Otomo, M. (2014). Further Study on the Mangrove Recovery Processes in Can Gio, Viet Nam. Mangrove Ecosystems. Technical Report. Volume 6. Tohoku Gakuin University, International Society for Mangrove Ecosystems (ISME)

Moquillon, C. (1950). La foret de paletuviers de la pointe de Ca Mau. Archive Service. Foret. Saigon, Vietnam. 

Nam, V.N., Sinh, L.V., Miyagi, T., Baba, S. & Chan, H.T. (2014). An Overview of Can Gio District and Mangrove Biosphere Reserve. Mangrove Ecosystems. Technical Report. Volume 6. Tohoku Gakuin University, International Society for Mangrove Ecosystems (ISME).
 
Nguyen, L.D., Viet, P.B., Binh, T.T. Mai Thy, P.T. (2013). Land use, land cover changes in the Mekong Delta, Vietnam, using remotely sensed data. Mekong Environmental Symposium 2013 Ho Chi Minh City, 5 – 7 March 2013.
Nguyen, Hai-Hoa, McAlpine, C., Pullar Kasper, D., Norman, J. & Duke, C. (2013). The relationship of spatial–temporal changes in fringe mangrove extent and adjacent land-use: Case study of Kien Giang coast, Vietnam. Ocean and Coastal Management, 76, 12-22 

Quế, N.Đ. & Hải, V.Đ. (2012). Xây dựng rừng phòng hộ ngập mặn ven biển thực trạng và giải pháp. Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn - Trung Tâm Khuyến Nông Quốc Gia
 
Thu, P.M. & Populus, J. (2007). Status and changes of mangrove forest in Mekong Delta: Case study in Tra Vinh, Vietnam. Estuarine, Coastal and Shelf Science , 71, 98-109. 

Tong, P. H. S., Auda, Y., Populus,J., Aizpuru,M., Al Habshi, A. and Blasco, F. (2004). Assessment from space of mangroves evolution in the Mekong delta, in relation with extensive shrimp-farming. International journal of remote sensing, 25, (21), 4795-4812. 

Tri, Nguyễn Hoàng (2009). Khu dự trữ sinh quyễn Mũi Cà Mau. http://mabvietnam.net/Vn/MuiCaMaubios_vn.htm
 
TTXVN (10/11/2013). Trồng rừng bảo vệ môi trường chống biến đổi khí hậu.
 
Tuan, L.A., Du, L.V. & Skinner, T. (ed), (2012). Rapid Integrated & Ecosystem-Based Assessment of Climate Change Vulnerability & Adaptation for Ben Tre Province, Vietnam. Completed under the ‘Global Cooperation on Water Resource Management’ (WWF and
Coca-Cola) and the ‘Capacity building and sustainable production’ programme (WWF – DANIDA) by World Wildlife Fund for Nature (WWF). 

Tuấn, M.S. (2012). Thực trạng rừng ngập mặn tại Việt Nam. http://www.rfa.org/vietnamese/programs/ScienceAndEnvironment/sea-front-forest-in-vn-gm-04182012100319.html
 
Vo, Q.T., Oppelt, N., Leinen kugel, P. & C. Kuenzer, C. (2013) Remote Sensing in Mapping Mangrove Ecosystems - An Object-Based Approach. Remote Sensing, 5, 183-201.
 
V. Tran Thi, A. Tien Thi Xuan, H. Phan Nguyen, F. Dahdouh-Guebas, & N. Koedam (2014). Application of remote sensing and GIS for detection of long-term mangrove shoreline changes in Mui Ca Mau, Vietnam. Biogeosciences, 11, 3781–3795.

Trần-Đăng Hồng, Ph.D 





 


No comments:

Post a Comment